Lịch sử Săn

Thời kỳ đồ đá cũ

Tranh vẽ trên đá ở sa mạc Sahara

Đi săn có một lịch sử lâu đời và có lẽ trước cả sự trỗi dậy của loài homo sapiens. Trong khi mà tổ tiên họ người sớm nhất của chúng ta có lẽ vẫn còn thuộc loài ăn quả hay ăn tạp, thì có bằng chứng cho thấy rằng chủng loài homo trước đó,[4][5] có khả năng là australopithecine[6], săn những động vật lớn hơn để tồn tại. Những bằng chứng ở phía tây Kenya cho rằng việc đi săn có lẽ đã diễn ra khoảng hai triệu năm trước.[7]

Hơn nữa, bằng chứng tồn tại cho thấy rằng việc đi săn có lẽ là một trong những nhân tố dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài động vật lớn thế Holocen và được thay thế bởi các động vật ăn cỏ nhỏ hơn.[8] Sự tuyệt chủng của động vật lớn ở Bắc Mỹ trùng với sự kiện Younger Dryas, làm cho việc đi săn có khả năng không phải là nhân tố quan trọng của sự tuyệt chủng các loài như người ta đã từng nghĩ trước đó.[9] Tuy nhiên, ở những nơi khác, chẳng hạn như ở Úc, con người được cho là đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tuyệt chủng các loài động vật lớn ở Úc do sự chiếm giữ không gian sống cho mình.[10][11]

Họ hàng gần nhất với con người còn tồn tại là hai loài tinh tinh: tinh tinh thông thường (Pan troglodytes) và bonobo (Pan paniscus). Tinh tinh thông thường là loài ăn tạp và có thói quen săn mồi theo đàn, thường là do con đực đầu đàn chỉ huy. Tinh tinh bonobo cũng được cho là có tham gia săn theo đàn,[12] nhưng chủ yếu vẫn là loài ăn quả.[13]

Trong khi việc loài người đã sớm là thợ săn là không còn nghi ngờ gì nữa, sự quan trọng của điều này là sự nổi bật của chủng loài homo từ chủng loài Australopithecine, bao gồm sự chế tạo các công cụ bằng đá và sau đó là sử dụng lửa. Với sự hình thành ngôn ngữ, văn hóa, và tôn giáo, đi săn đã trở thành chủ đề của các câu truyện và thần thoại, cũng như các nghi lễ chẳng hạn như múa và hiến tế động vật.

Đi săn là một yếu tố quan trọng trong xã hội săn bắt và hái lượm trước khi có sự thuần hóa gia súc và sự khởi đầu của nông nghiệp, bắt đầu khoảng 11000 năm trước. Cho đến thời kỳ đồ đá giữa, các chiến thuật đi săn đã trở nên đa dạng hóa hơn với sự phát triển của cung vào 18000 năm trước và sự thuần hóa loài chó vào khoảng 15000 năm trước. Có bằng chứng hóa thạch cho thấy việc sử dụng giáo để đi săn ở châu Á vào khoảng xấp xỉ 16200 năm trước.[14]

Cảnh săn hươu thời kỳ Moche, bộ sưu tập bảo tàng Larco tại Lima, Peru.Đồ gốm Hy Lạp cổ đại mô tả sự trở về của thợ săn cùng với chú chó của ông. Được làm ở Athens và khoảng năm 550 – 530 trước Công nguyên, được tìm thấy ở Rhodes.Artemis và con hươu cái, bản sao thời La Mã cổ đại của bức điêu khắc thời Hy Lạp cổ đại, vào khoảng năm 325 trước Công nguyên.

Nhiều loài động vật đã bị săn xuyên suốt lịch sử. Người ta cho rằng ở Bắc Mỹlục địa Á Âu, tuần lộc có lẽ là chủng loài quan trọng duy nhất trong cả nền văn hóa nhân loại về việc săn bắt[15], dù rằng sự quan trọng của những chủng loài khác nhau tùy thuộc và vị trí địa lý.

Kiểu sống săn bắt và hái lượm vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở một vài nơi tại Tân Thế giới, Châu Phi hạ Sahara, Xibia, cũng như ở toàn bộ Úc, cho đến thời đại khám phá của người châu Âu. Hiện tai vẫn còn những xã hội kiểu bộ lạc, nhưng đang giảm đi nhanh chóng. Những người mà vẫn còn duy trì tập quán săn bắt và hái lượm cho đến gần đây bao gồm người dân bản địa ở Amazon, một số ở Trung và Nam Phi (người San), một số ở New Guinea (người Fayu), người Mlabri ở Thái LanLào, người Vedda ở Sri Lanka, và rất nhiều bộ lạc chưa được biết đến. Ở Châu Phi, những người vẫn còn săn bắt và hái lượm cả ngày còn lại là người Hadza ở Tanzania.

Sự phê phán

Nhà khảo cổ học Louis Binford phê phán ý tưởng cho rằng những sinh vật họ người và những con người đầu tiên đều là thợ săn. Dựa trên nền tảng của phân tích phần xương còn lại của những động vật bị ăn thịt, ông kết luận rằng những sinh vật họ người và những con người đầu tiên hầu hết đều là những động vật ăn xác thối chứ không phải thợ săn,[16] và ý tưởng này khá phổ biến trong giới khảo cổ học và nghiên cứu nhân loại thời cổ. Robert Blumenschine đề xuất ý tưởng "đương đầu và cướp xác",[17] là thách thức và đuổi các loài thú săn mồi khác đi sau khi chúng giết con mồi, mà ông cho rằng có thể là phương pháp chính nhằm lấy được nguồn thịt giàu protein bởi những con người đầu tiên.

Tính cổ xưa

Kể cả khi sư thuần hóa động vật trở nên tương đối phổ biến và sau khi nông nghiệp đã phát triển, việc đi săn vẫn là một nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng cho con người. Ngoài thịt ra, việc đi săn còn cung cấp các vật liệu, chẳng hạn như xương để làm vật dụng, gân để làm thừng chão,lông, lông vũ, da để làm quần áo. Những vũ khí đi săn sớm nhất của con người bao gồm đá, giáo, dụng cụ ném giáo, và cung tên. Việc đi săn vẫn là điều sống còn ở những nơi có khí hậu khô hạn, đặc biệt là những nơi không thích hợp cho chăn nuôi hay trồng trọt. Ví dụ như người Inuitvùng Bắc Cực hay bẫy và săn động vật để làm quần áo và lấy da của động vật có vú ngoài biển để làm thuyền kayak, quần áo và giày dép.

Cảnh săn bắt trong Quần thể lăng mộ Cao Câu Ly.

Trên những hình chạm khắc cổ đại, đặc biệt là từ nền văn minh Lưỡng Hà, những vị vua thường được mô tả là những thợ săn các động vật lớn chẳng hạn như sư tử và thường là đang đi săn trên những cỗ xe ngựa chiến. Tầm quan trọng về mặt văn hóa và tâm lý của việc đi săn ở những xã hội thời cổ thường được đại diện bởi những vị thần, chẳng hạn như thần có sừng Cernunnos và những nữ thần mặt trăng trên các cổ vật, Artemis trong thần thoại Hy LạpDiana trong thần thoại La Mã.

Với sự thuần hóa các loài chó, chim săn mồichồn sương, những hình thức hỗ trợ đi săn bằng động vật đã phát triển, bao gồm sử dụng chó để đánh hơi, quan sát; sử dụng chim ưng; chồn sương. Trong khi những hình thức này thường đi kèm với săn bắt thời Trung Cổ, nhiều giống chó đã được chọn để thực hiện những việc quan trọng trong lúc đi săn.

Chăn nuôi và nông nghiệp

Phụ nữ đi săn vào thế kỷ 15.Thảm thêu với cảnh săn bắn, thế kỷ 16.

Kể cả khi nông nghiệp và công việc chăn nuôi đã trở nên phổ biến hơn, việc đi săn vẫn thường tồn tại như một phần của văn hóa loài người ở nơi mà điều kiện xã hội và môi trường cho phép. Những xã hội săn bắt và hái lượm vẫn duy trì, kể cả khi hạn chế ở những nơi khô hạn. Và bên trong hệ thống nông nghiệp, săn bắt là nhằm giết những động vật mà hay săn các động vật thuần hóa hay hoang dã khác, hoặc là cố gắng tuyệt diệt những động vật mà con người cho là cạnh tranh các nguồn tài nguyên chẳng hạn như nước và cỏ cho gia súc.Khi việc săn bắt chuyển từ mục đích tồn tại sang một hoạt động xã hội thi có hai xu hướng nảy sinh

  1. Sự phát triển của vai trò các thợ săn chuyên nghiệp, với phương pháp huấn luyện và trang thiết bị đặc biệt
  2. Đưa săn bắt trở thành một môn "thể thao" cho tầng lớp thượng lưu của xã hội

Nghĩa của chữ "game" trong tiếng Anh thời Trung cổ đã "tiến hóa" để chỉ một con vật bị săn. Khi thú săn trở nên xa xỉ hơn mức cần thiết, các phương pháp truy đuổi theo kiểu cách cũng trở thành một sự xa xỉ. Săn bắt kiểu nguy hiểm, chẳng hạn như sư tử hay heo rừng, thường được áp dụng trên lưng ngựa hay trên một cỗ xe, cũng có cùng chức năng với các giải đấu hay các môn thể thao dành cho nam giới. Săn bắt được xếp hạng là một kiểu giải trí danh giá, có phần nào cạnh tranh để giúp giới quý tộc tập luyện kỹ năng chiến đấu trong thời bình.[18]

Tại hầu hết các nơi ở châu Âu thời Trung cổ, tầng lớp thượng lưu có những đặc quyền được săn bắt trong các khu vực của một lãnh thổ phong kiến. Thú săn ở những khu vực này được sử dụng làm nguồn thực phẩm và lông, thường được chia đều cho các thợ săn chuyên nghiệp, nhưng cũng được trông chờ làm một hình thức giải trí cho giới quý tộc. Sự quan trọng của quan điểm độc quyền thú săn có thể được thấy trong các giai thoại về Robin Hood, mà ở đó những người ngoài vòng pháp luật thường bị buộc tội chính là "săn nai của nhà vua". Trái lại, những người định cư ở những thuộc địa Anglophone thì tôn vinh sự săn bắt một cách dân chủ.[19]

Việc sử dụng loài chó

Dù rằng nhiều loài động vật đã được sử dụng nhằm hỗ trợ thợ săn, chẳng hạn như chồn sương, không có loài nào quan trọng bằng loài chó. Sự thuần hóa của chúng đã dẫn đến mối quan hê cộng sinh mà sự độc lập của chó từ con người là được chiều theo. Dù loài chó có thể sống độc lập khỏi con người, và trong nhiều trường hợp, khi mà cơn đói không phải là nhân tố chính buộc chúng phải tuân theo sự kiểm soát của con người để có được chỗ ở, thức ăn và sự chăm sóc.

Hunting companions, tranh vẽ Hà Lan thế kỷ 19 mô tả 2 chú chó, Shotgun súng săn và túi đựng mồi.

Ngày nay chó được dùng để tìm, truy đuổi, nhặt mồi và đôi khi giết thú săn. Chó đi săn giúp con người bám theo và giết những thú săn khó hay nguy hiểm. Việc săn bắt động vật có vú hoang dã với chó ở AnhWales đã bị cấm theo đạo luật săn bắt 2004. Động vật có vú hoang dã bao gồm cáo, thỏ đồng, hươu nai, và chồn nhỏ. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ của đạo luật này cho phép đi săn với chó.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Săn http://www.dse.vic.gov.au/DSE/nrenrt.nsf/childdocs... http://www.gov.yk.ca/ http://www.americaeconomia.com/politica-sociedad/p... http://www.beyondveg.com/billings-t/comp-anat/comp... http://books.google.com/books?id=UDaEZnZ093EC http://books.google.com/books?id=r6lROQffJ7cC http://www.helplinelaw.com/docs/wildlife/01.php http://www.huntfairchase.com/ http://www.livescience.com/9601-bonobos-hunt-prima... http://www.scientificamerican.com/article/how-hunt...